Ý NGHĨA 10 ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA NGƯỜI HUYNH TRƯỞNG GĐPT

NamNu

BBT: Trước ngày tổ chức lễ thọ cấp Tín, Tập cho một số huynh trưởng tân thăng. Trang nhà GĐPT Bà Rịa Vũng Tàu xin gởi đến quý anh chị huynh trưởng  nội dung và ý nghĩa 10 điều tâm niệm của người Huynh trưởng GĐPTVN để anh chị em huynh trưởng các cấp tham khảo, vì  trong lời phát nguyện thứ 3 của huynh trưởng cấp Tập là:“Nguyện thực hành mười điều tâm niệm của người Huynh trưởng trong tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam” nhưng  mười điều tâm niệm của người Huynh trưởng không được đưa vào chương trình tu học nên hầu hết huynh trưởng  đều không nhớ hoặc không biết mười điều tâm niệm của người huynh trưởng là gì!

Phật Giáo đề cao ngôi Tam Bảo, tôn sùng Tăng Chúng như các sứ giả của giác ngộ. Gia Ðình Phật Tử là một tổ chức tôn giáo, giáo dục thanh niên thì vấn đề nhân sự cũng phải đặt lên hàng đầu.

Tăng Chúng sa đọa thì Ðạo phải suy tàn. Cán bộ non yếu thì phong trào phải tan rã. Bài học Nho giáo tàn tạ, Nho sĩ tan rã trước đây vẫn còn đó. Gia Ðình Phật Tử tiến hay lùi, mạnh hay yếu, sống hay chết là do ở Huynh Trưởng. Hình ảnh ấy, có thể xây dựng trên 10 ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA NGƯỜI HUYNH TRƯỞNG:

  • Tin vào Ðạo – Tin vào Gia Ðình Phật Tử.
  • Thông suốt đường lối Gia Ðình Phật Tử.
  • Tránh sự huyền dụ của Tà thuyết.
  • Yêu nghề dạy trẻ (nhắm đúng đối tượng).
  • Trau dồi kiến thức (hiểu rõ phương pháp).
  • Tuân kỷ luật, chịu huấn luyện.
  • Phát huy sáng kiến.
  • Tổ chức đời sống.
  • Làm việc có kế hoạch.
  • Tác phong nghiêm chỉnh.

Tâm niệm thứ nhất: Tin vào Ðạo – Tin vào Gia Ðình Phật Tử

Nguyên do thúc đẩy một Đoàn sinh gia nhập Gia Ðình Phật Tử thường tùy thuộc vào tình cảm hay hoàn cảnh. Ðối với một Huynh trưởng, vấn đề không phải giản dị như thế. Có người vì mộ đạo, vì yêu đời. Có kẻ vì hiếu kỳ, vì hiếu động. Huynh trưởng Gia Ðình Phật Tử có đủ mọi giới. Có anh là một chiến sĩ đã ghê tởm mùi máu, có chị là thiếu nữ chán cảnh khuê phòng, có người là nhà giáo ghét bỏ cái lối dạy học nhồi sọ, có bạn là thương gia ngán mùi danh lợi v.v… Thật là phức tạp.

Con người khi chọn một nghề, không ít thì nhiều đã bị “khuynh hướng nội tâm” chi phối. Nếu tìm được một nghề thích hợp, vừa sống được, vừa thích thú thì có trở thành nghiệp dĩ. Như vậy nghề làm Huynh trưởng cũng đòi hỏi ít nhiều về “căn duyên” với Ðạo. Căn duyên ấy phát hiện trên đức tin. Ðức tin là sức mạnh tinh thần. Nó là nhiệt lượng của đời sống. Nó là lửa của tâm hồn. Một trăm thùng nước lã không đủ để tưới một cây, nhưng với một bát nước sôi đã có thể làm nên chuyện nóng bỏng. Ðức tin của một Huynh trưởng không phải chỉ chôn dấu trong tâm tưởng, trong khấn nguyện mà phải thể hiện bằng hành động. Vì tin vào tính cách hằng cửu của Phật pháp mà người Huynh trưởng phải tâm niệm Gia Ðình Phật Tử là một tổ chức trường cửu chứ không phải là giai đoạn.

Rồi đây, sẽ có những anh chị em Đoàn trưởng Gia Ðình Phật Tử trở thành cấp lãnh đạo Giáo hội; sẽ có các em đồng niên lớn lên làm công việc hướng dẫn. Cũng vì tính cách vĩnh cửu đó, Huynh trưởng phải triệt để tin tưởng vào sinh mệnh của Gia Ðình Phật Tử. Ðời sống của một Huynh trưởng không phải chỉ trong một tháng, một ngày hay một cơn ngẫu hứng, một cơ hội ồn ào. Sự cố gắng tự cường tự lực phải trở thành một tiềm lực của tâm hồn, nó sẽ trở thành một sự đam mê mãnh liệt chi phối mọi khía cạnh của cuộc sống.

Nếu đã có những triết gia đam mê suy tưởng đến để cho quạ làm tổ trên đầu, nếu đã có những nhà bác học mải mê với công cuộc khảo cứu trong phòng thí nghiệm, đến phải què quặt, nếu đã có những chiến sĩ quên mình cho dân tộc, nếu đã có các vị thánh tử đạo xả thân cho Đạo pháp, thì Gia Ðình Phật Tử phải có những Huynh trưởng coi “đời sống của đoàn thể là đời sống của chính mình”. Ta không cần phải thuyết minh dài dòng về hạnh chính kiến, chánh tín của Phật Tử mà chỉ cần thâm cảm đúng mức giá trị trường cửu của Gia Ðình Phật Tử.

Tâm niệm thứ hai: Thông suốt đường lối Gia Ðình Phật Tử

Hy sinh cho lý tưởng thì phải hiểu lý tưởng. Ðường lối Gia Ðình Phật Tử là cứu cánh của công tác. Con đường đi tới của Gia Ðình Phật Tử không phải là hoạt động cho cơ hội, cho hiện tại mà phải nhắm vào mục đích “trồng người”. Người Huynh trưởng không phải chỉ biết mặc áo lam, thổi còi tranh đấu mà quên mục đích giáo dục. Phải tìm hiểu rõ ràng con đường mình phải đi. Ði tới đâu? Ði để làm gì?

Con đường tương lai của Gia Ðình Phật Tử là đào tạo một thế hệ Phật giáo đồ mới khác với lớp “Đạo hữu” hiện tại. Kể về công phu tu học của các Đạo hữu hiện tại thì không phải là non kém, nhưng trong tương lai, khi mà nhân loại cứ tiến bộ từng mười năm một rất nhanh, rất chóng như bóng câu qua cửa sổ thì nếu không có sự cải tiến, nhất định con đường tu học phải bế tắc.

Hiện nay, ở Tây phương, sức mạnh của văn minh cơ giới đã làm cho một số giáo điều Thiên chúa trở thành lỗi thời. Có người bảo tới năm 2000 thì tận thế. Có người nói khi nào nước Do Thái tái lập thì thế giới sẽ tận diệt. Thế mà cái dân tộc không lãnh thổ này đã dựng lại nước từ năm 1947. Những cố gắng của Giáo hội Thiên chúa giáo về các Công đồng 1963-1964 là để nghiên cứu cách cải tiến việc truyền giáo và nếu cần cả kinh điển nữa. Công việc ấy có lẽ chậm rồi chăng? Riêng đối với Phật giáo, từ khi ngài Thái Hư phát động cuộc cách mệnh giáo chế, giáo lý, giáo sản, đã mang một gương mặt mới, một gương mặt tiến bộ mà không ngược với Đạo pháp chân truyền. Cho nên Huynh trưởng Gia Ðình Phật Tử bắt buộc phải hiểu rõ nguyên nhân phát sinh của Gia Ðình Phật Tử. Quá trình phát triển từ khi thành lập cho tới hiện tại; cơ cấu tổ chức và lãnh đạo của Gia Ðình Phật Tử và nhất là phải nhận thức được sứ mệnh cao cả của mình. Có như thế thì công việc mới không đến nỗi phù du, mong manh như cánh hoa buổi sáng sẽ tàn rụi dần khi gặp cảnh chiều tà.

Ðường lối Gia Ðình Phật Tử không đi ngược với Đạo pháp, với Tổ quốc, với bước tiến hóa không ngừng của nhân loại. Mai đây, khi thế giới Phật giáo nhìn về chúng ta, họ sẽ phải ngạc nhiên vì chính ở tại nơi đất nước nghèo nàn, đau khổ này lại là nguồn phát sinh một phong trào tiềm ẩn cứu sống tương lai của Phật giáo.

Tâm niệm thứ ba: Tránh sự huyền dụ của Tà thuyết

Ðời người là sự dằng co giữa các khuynh hướng thấp hèn và cao thượng. Con đường đi vào tội ác bao giờ cũng đầy hoa thơm cỏ lạ, đầy sức quyến rũ tình cảm của con người. Trái lại, con đường Đạo thường quá ư đạm bạc, thanh tĩnh gần như khác với bản chất ngu muội của con người. Tà thuyết và chánh đạo cũng vậy. Uy lực của tà thuyết bao giờ cũng dễ lôi cuốn, dễ hấp dẫn. Nó làm thỏa mãn hiện tại. Nó mê hoặc trí óc con người. Nó vỗ về dục vọng, thú tính. Thế nhưng, một khi ánh đạo đã chiếu rọi vào tâm hồn, người ta sẽ cảm thấy giật mình sực tỉnh giấc mộng đời. Thật ra, ánh sáng chân lý bao giờ cũng chói chang khó chịu. Ngày xưa triết gia Piaton đã lấy một ví dụ rất thường để nói một ý rất cao: “Con người sống ở đời như ngồi trong hang đá, quay lưng ra ánh sáng và vui với cái bóng đen của sự vật, của chính mình. Ai cũng tưởng bóng ấy là thật. Ðến khi được ra ánh sáng, người sẽ cảm thấy khó chịu và lại muốn rút vào ngồi trong cái hang đá ‘mát mẻ’ kia!”

Ta có thể lấy một ví dụ khác về ‘đời là bể khổ’. “Nếu ta gọi hạnh phúc là ánh sáng và đau khổ là bóng tối, thì khi ta đứng giữa nắng, ánh nắng càng rạng rỡ bao nhiêu, thì cái bóng đen của ta lại đen thẫm bấy nhiêu. Trong hạnh phúc bao giờ cũng đeo đẳng theo đau khổ. Trái lại, khi ánh mặt trời đã tắt thì trần gian không hề có ánh sáng nữa!”. Ðáng lẽ con người phải tìm ra ánh sáng thì mâu thuẫn thay! vì quá sợ ánh sáng mà cứ ẩn núp vào bóng tối. Nếu có người đã thắp ngọn đèn thì đó chỉ là sự cố gắng nhỏ nhoi để tìm một chút hạnh phúc trong biển khổ mênh mông! Nhưng thử hỏi có cây nến nào mà không hết, có ngọn đèn nào mà chẳng cạn dầu, có nguồn điện lực nào bất tận? Ðời người chẳng qua là cây nến, là nén hương. Ðốt nến, châm hương là mong để lại cho đời chút mùi thơm, chút ánh sáng. Nhưng khi hương thơm vừa tỏa ra, ánh sáng vừa le lói thì nhìn lại cây nến chỉ còn là đống xác và cây hương chỉ còn là một nắm tro tàn! Như thế, nếu ta không tìm cho đời mình một nghĩa sống bằng cách ngồi trong đêm thâu mà nhìn lên các vì sao để tìm ánh sáng trên vũ trụ vô cùng, thì cuộc đời sẽ mất dần đi một cách thê thảm và vô dụng như cây cỏ.

Ðạo Phật là ánh sáng trường cửu chưa bao giờ chói chang mà cũng chưa bao giờ ngừng tắt. Các lý thuyết sôi nổi nhất của Nietszche, của bao nhiêu nhà tư tưởng, nay chỉ còn lại giá trị của một chút dĩ vãng. Nhân loại càng tiến thì sức đào thải tự nhiên càng mạnh. Các tư tưởng truyền bá bằng vũ khí, cuồng tín và máu lửa bao giờ cũng chóng tiêu diệt dù có đem tới vài giải pháp cấp thời cho nhân sinh. Trí óc con người chỉ hướng về cái gì cụ thể, khả giác mà quên mọi sự siêu hình. Ta chưa từng thấy cái “không” sinh ra cái “có” mà chỉ thấy cái “hiện hữu” đi dần vào cõi “vô hình”. Tà thuyết chỉ cung cấp cho ta những gì “thấy được”, “biết được” mà không hề thỏa mãn nổi mối khắc khoải của tâm hồn về cái nhỏ bé của con người trước cái lớn mạnh của hư vô. Người Huynh trưởng Gia Ðình Phật Tử hôm nay phải luôn luôn chiêm nghiệm, suy tư để phân biệt chánh pháp với tà thuyết để mai sau khỏi phải khóc cho mình và cũng chớ để cho người khác phải khóc vì mình không sáng suốt.

Tâm niệm thứ tư: Yêu nghề dạy trẻ (nhắm đúng đối tượng)

Yêu trẻ là yêu dĩ vãng của chính mình. Nếu có Huynh trưởng đã trải qua một thời thơ ấu đầy đau thương, bất hạnh thì nay phải cố gắng đừng để cho các em phải khổ như mình ngày xưa. Nếu có Huynh trưởng đã có một thiếu thời sung sướng thì cũng nên gắng cho các em được sung sướng như thời trước của mình. Có yêu trẻ, người Huynh trưởng mới chịu hiểu trẻ; buồn cái buồn trước trẻ, vui sau cái vui của trẻ. Bậc phụ huynh gương mẫu thường không nghĩ tới sự phụng dưỡng của con cái mai sau mà chỉ mong con tiếp tục thực hiện những ý nguyện dang dở của mình đã vì việc mưu sinh, vì cuộc đời ngắn ngủi đã không thực hiện được. Cha mẹ lựa cái tên đầy ý nghĩa để đặt cho con là cầu mong con thực hiện cái nội dung của tên gọi ấy. Những cái tên tốt đẹp của con trai, những cái tên dịu hiền của con gái đều gói trọn tình thương và kỳ vọng của bậc sinh thành với đàn hậu tiến. Vì nghĩ đến dĩ vãng mà phải lo tương lai.

Người Huynh trưởng gương mẫu bắt buộc phải yêu thương, kính trọng tuổi trẻ của đời. Có yêu thương người Huynh trưởng mới quên hết nhọc nhằn mà hết lòng nhẫn nại huấn luyện cho các em trở thành người tốt. Lệ thường, người ta ai cũng coi con của mình trọng hơn con của người. Huynh trưởng phải vượt ra “nhi nữ thường tình” mà coi trẻ như là thân mình, như là con, em ruột của mình vậy. Có kính trọng tuổi trẻ, Huynh trưởng mới dồn hết tâm lực mình vào công tác giáo dục. Ðời người cũng như một ngày: Tuổi trẻ là bình minh, tráng niên là trưa nắng và tuổi già là buổi tà. Trong không khí mát dịu trong lành đang lên của bình minh, tuổi trẻ, người vừa thức giấc sẽ thừa hưởng trọn vẹn cao đẹp của đời người. Ði với trẻ, ta sẽ trẻ lại, ta sẽ trẻ mãi không già. Nếu bạn đã chán cái ô nhục, thủ đoạn của cuộc đời thì hãy trở về yêu mến vẻ thanh khiết chân thành của trẻ. Ðời ta cứ già cỗi nhưng hồn ta vẫn thơ ngây. Một vẻ thơ ngây đáng quý chứ không phải cái ngây ngô của những người già trước tuổi.

Không yêu nghề dạy trẻ thì Huynh trưởng sẽ coi mọi công tác, mọi hoạt động giống với cực hình. Người đã không yêu trẻ, không yêu súc vật là người vô nhân đạo nhất. Người Huynh trưởng hãy nhìn thẳng vào các em, vào dĩ vãng của chính mình mà hăng hái hoạt động. Hãy làm sống lại tuổi thơ của mình bằng cách giúp cho trẻ vui sống trong Gia Ðình Phật Tử.

Tâm niệm thứ năm: Trau dồi kiến thức (Hiểu rõ phương pháp)

Muốn phục vụ tuổi trẻ, Huynh trưởng phải nhìn thẳng vào đối tượng mà thực hiện phong trào giáo dục. Là một phương pháp chứng nghiệm, Gia Ðình Phật Tử đòi hỏi Huynh trưởng phải có kiến thức chuyên môn và kiến thức tổng quát. Về chuyên môn thì phải tu học Phật pháp, nghiên cứu khoa tâm lý thiếu nhi và thành thạo các sinh hoạt ngành, các môn học đã ghi trong chương trình tu học của Gia Ðình Phật Tử.

Có học Phật pháp thì mới có chánh tín. Có học tâm lý thì mới vượt khỏi cái vỏ chủ quan cằn cỗi mà đi vào lòng trẻ. Có rành các ngành thì mới đáp ứng đúng với yêu cầu của mỗi giới: Nam, Nữ Phật tử, Thiếu Nam, Thiếu Nữ, Nam, Nữ Oanh vũ, mỗi ngành đều có một không khí sống riêng biệt. Có sành các môn học trong chương trình tu học mới xứng đáng làm người lãnh đạo Thanh, Thiếu Nhi. Nhưng, kiến thức tổng quát lại còn cần hơn cả chuyên môn nữa. Hãy nhìn quanh mình. Trí óc nhân loại ngày một mở rộng. Ðời sống ngày càng phức tạp. “Người là con vật xã hội”. Ðời đâu phải là hoang đảo. Sự tiếp xúc với quần chúng đòi hỏi Huynh trưởng phải học hỏi không ngừng. Học không phải chỉ có sách, không phải chỉ ở ghế nhà trường. Người Huynh trưởng gương mẫu phải có học lực tổng quát về: Chính trị, Kinh tế, Xã hội, Triết học, Khoa học… và những phong tục, tập quán cố hữu của dân tộc.

Ðiều đáng buồn là trước kia, có những Huynh trưởng chỉ ỷ lại vào “tuổi thọ” của mình rồi chẳng chịu học hành. Ðể đến khi các em tiến bỏ xa mình thì lại đâm ra ghen ghét, đố kỵ. Thế thì đâu đáng còn làm Huynh trưởng nữa. Ta học cho ta, ta học cho trẻ, học cho cả một thế hệ. Ta không có quyền làm dốt mình và cũng không có được quyền làm khổ kẻ khác vì sự dốt nát của mình. Nghe Einstein nói: “Cái biết con người là giọt nước. Cái không biết là đại dương”. Có nghĩ như vậy, rồi không chịu học nữa. Thật chẳng khác gì người bộ hành sắp chết khát mà khi bò tới bờ sông lại chẳng chịu uống vì nghĩ rằng “uống sao cho hết được nước sông!”.

Tâm niệm thứ sáu: Tuân kỷ luật – Chịu huấn luyện

Ðương nhiên, khi Huynh trưởng chưa thấu đạt được mục đích và quy củ của Gia Ðình Phật Tử thì không thể tự mình tạo lấy kiến thức nên phải nhờ cậy vào sự huấn luyện của đàn anh. Muốn thụ huấn, Huynh trưởng tập sự cần phải chuẩn bị tinh thần kỷ luật. Có người hiểu lầm rằng kỷ luật trái ngược với tự do. Phải nên hiểu: “Tự do không phải là muốn làm gì thì làm, mà chính là tự mình chọn lấy một kỷ luật”.

Một hành vi bao giờ cũng gồm hai yếu tố: có ý thức và có tự do. Trước khi gia nhập vào Gia Ðình Phật Tử, Huynh trưởng có ý thức để chọn lựa con đường lý tưởng của mình, Huynh trưởng có tự do chọn lựa. Không ai có quyền bắt buộc ai gia nhập Gia Ðình Phật Tử. Chỉ khi nào, Huynh trưởng nhờ tự do và ý thức mà chọn lựa nề nếp Gia Ðình Phật Tử thì tự nguyện ghép mình vào kỷ luật của Gia Ðình Phật Tử. Nếu sau khi gia nhập hàng ngũ, Huynh trưởng nào vẫn bất tuân thượng lệnh, càn rở, hỗn xược, phóng túng tức là Huynh trưởng đó đã tự hủy hoại tự do, nghĩa là phủ nhận con đường mình đã tự do lựa chọn. Tuân theo kỷ luật là bảo vệ tự do. Do đó, mà các nhà ái quốc, một khi đã tự nguyện hiến thân cho Tổ quốc, các nhà tu hành một khi đã phát tâm cầu đạo thì mọi xiềng xích, mọi khổ hạnh đều trở thành yếu tố quyết định để luyện thép tinh thần và bảo vệ niềm tin.

Có kỷ luật mới chịu huấn luyện. Bao giờ nếp sống đoàn thể cũng gần như trái ngược với đời sống riêng tư. Chịu huấn luyện là đặt mình dưới sự hướng dẫn của các anh chị trưởng. Những ngưòi ấy phần nhiều nếu chưa đạt được mức tinh diệu của nghề dạy trẻ thì cũng đã hy sinh nhiều cho quá trình phát triển Gia Ðình Phật Tử. Phải tin vào lời dạy. Phải thực hiện cho đúng những điều đã học. Muốn tiếp nhận chu đáo những lời giảng dạy thì phải gạt bỏ mọi thành kiến sẵn có. Phải can đảm chịu “rửa óc” trước khi tiếp nhận tư tưởng mới. Tư tưởng là hoa, trí óc là bình. Muốn cho vẻ đẹp của tâm hồn được hoàn mỹ thì phải rửa bình, xén lá sạch sẽ trước đã. Bình sạch, hoa tươi thì tự nhiên bình hoa phải đẹp, phải đáng yêu.

Ngoài việc huấn luyện của các Trại, các Bậc, Huynh trưỏng còn phải tự tu, tự luyện cho trí tuệ thêm sắc bén, tình cảm thêm dồi dào, hoạt động thêm nhanh nhẹn. Hãy tự mình tu luyện lấy mình. Sự hỗ trợ của khách quan chỉ là năng lực thúc đẩy. Hãy coi mình là tảng đá thô sơ mà nhờ sự huấn luyện trau chuốt sẽ có ngày trở thành pho tượng đẹp.

Tâm niệm thứ bảy: Phát huy sáng kiến

Về điều hành, Huynh trưởng phải triệt để tuân theo Nội quy. Nhưng không vì thế mà nói rằng Huynh trưởng, chỉ một mực bị gò bó vào tinh thần giáo điều, kinh viện. Gia Ðình Phật Tử là một thực thể luôn luôn tiến bộ, Huynh trưởng phải tin rằng Gia Ðình Phật Tử sẽ còn tiến và tiến xa mãi cho tới khi trở thành một “nề nếp giáo dục quốc gia và tôn giáo”. Muốn tiến thì phải vững. Muốn vững phải cải tiến. Việc cải tiến dựa vào sáng kiến của Huynh trưởng. Sáng kiến không chỉ là sản phẩm của tưởng tượng. Nó là hiện tượng đúc kết kinh nghiệm và làm phóng tỏa trí tuệ của cá nhân. Từ những ý tưởng mới nhỏ nhặt tong buổi họp đoàn cho tới quan điểm cá nhân trong hội nghị, cho tới các đề nghị, dự án đều phải được hình thành trong kinh nghiệm chỉ huy. Không sáng kiến người ta sẽ thành thủ cựu. Thủ cựu là khư khư ôm lấy mớ kiến thức lỗi thời. Mà đã lỗi thời là tức thì phải bị đào thải. Sáng kiến không phải tự nhiên mà có. Nó là thành quả của suy tư, của hoạt động, của chuổi kinh nghiệm đối phó với nghịch cảnh.

Người đời thường sợ nghịch cảnh, nhưng chính nghịch cảnh là môi trường tạo ra sáng kiến. Người thỏa mãn là người nghèo ý tưởng mới nhất. Gia Ðình Phật Tử ngày một bành trướng mạnh đang cần tới rất nhiều sáng kiến cá nhân. Trên thực tế, một số đạo hữu đã hay chống đối Gia Ðình Phật Tử. Họ chống, vì họ không đủ sức thấy được cái hay cái mới. Họ đã trở thành thủ cựu. Thủ cựu là vào nằm sẵn trong quan tài dù còn phải sống khổ rất lâu mới chết được. Sáng kiến còn là sản phẩm của sự giao tiếp thường xuyên. Một Huynh trưởng phải biết nghe sáng kiến của bạn. Một số người có cố tật là chỉ thích cái gì giống với mình và ghét cái gì khác với mình. Không phải chỉ về hình thức. Người ta còn loại bỏ tư tưởng kẻ khác một cách quá dễ dãi chỉ vì tư tưởng ấy không giống với “cái khung lý luận sẵn có của mình”. Nguy lắm! Làm như thế là tự đóng cửa tâm hồn, tự làm đui, làm điếc. Phải biết nghe những điều mới lạ. Phải biết nói những lời khác mình. Tất nhiên phải là những lời nói phải. Một Huynh trưởng không chịu phát huy sáng kiến là một cành củi khô giữa ngàn hoa Gia Ðình Phật Tử.

Tâm niệm thứ tám: Tổ chức đời sống

Muốn phục vụ sứ mệnh một cách có hiệu quả thì Huynh trưởng phải biết tổ chức đời sống của riêng mình. Gia Ðình Phật Tử cũng có những Huynh trưởng sống độc thân để phụng thờ lý tưởng nhưng đa số đều là những người đã có gia đình, có chức nghiệp. Ðể hy sinh trọn vẹn cho lý tưởng, Huynh trưởng phải có quy củ tổ chức gia đình cho hợp lý và chu đáo. Có hợp lý mới khỏi khổ sở vì cảnh ‘vợ con bệnh tật đói rách’. Có chu đáo mới khỏi cảnh gia đình lủng củng. Một người cha có lương tâm không thể để cho con dốt nát bệnh hoạn. Một người chồng xứng đáng không thể để cho vợ nhà bực dọc vì phải quán xuyến quá nhiều về việc mưu sinh. Một người con ngoan không thể cứ bỏ nhà đi mãi, chẳng lo học hành. Một người vợ hiền không thể bỏ bê con cái, bỏ mặc việc nhà để cứ lo việc xã hội. Cho nên, Huynh trưởng phải xếp đặt việc nhà thế nào cho hợp lý để cho “công tư vẹn cả đôi bề” mới hay. Biết bao nhiêu Huynh trưởng đã vì quá nghèo khổ phải ngừng hoạt động. Biết bao nhiêu Huynh trưởng vì quá giàu mà quên nhiệm vụ. Quá nghèo cũng hư, mà quá giàu cũng hỏng.

Vậy, vấn đề tổ chức gia đình cần phải lưu ý: Thì giờ, tiền bạc là hai yếu tố chính cần phải phân phối cho hợp lý. Người Nhật Bản thường chẳng đi phố vào đầu tháng. Người công chức Nhật Bản sau khi có đồng lương chia ra từng món tiêu pha nhất định: Tiền nhà, người làm, nhu cầu, tiền học cho con, cho tới tiền thuốc lá, tiền tiêu vặt đều bỏ vào các phong bì riêng biệt. Vào cuối tháng, nếu không có cảnh huống bất ngờ, thì họ mới đem số tiền còn dư mà đi mua sắm. Và, đúng lúc đó lại lãnh lương tháng sau. Cuộc đời trôi chảy êm đềm và khỏi “ăn hối lộ”. Trái lại, trong chúng ta biết bao người, đầu tháng lãnh lương, giữa tháng đi vay, cuối tháng trả nợ. Suốt đời chỉ có nợ là nợ. Thế thì làm sao còn đi họp được? Ðối với các bạn chưa có gia đình, chưa có nghề nghiệp, thì nhất định phải tính toán việc mưu sinh bảo đảm. Ðời sống có bảo đảm thì mới rảnh óc, rảnh tay hoạt động được.

Nếu không làm như thế, gia đình sẽ là một món nợ, và Gia Ðình Phật Tử cũng là một trở ngại cho việc chạy tiền trả nợ nữa. Câu chuyện rất thực tế, nhưng vẫn là một kinh nghiệm đáng thực hành.

Tâm niệm thứ chín: Làm việc có kế hoạch

Người Huynh trưỏng gương mẫu phải phân biệt ba công việc: việc nhà, việc nước và việc Gia Ðình Phật Tử. Ðối với việc nhà, phải tổ chức sao cho “trong ấm ngoài êm”. Vợ chồng lục đục, con cái hư hỏng, tự sống cuộc đời vô tổ chức thì còn mong gì điều khiển được ai? Tổ chức riêng tư hợp lý và chu đáo là hoàn thành kế hoạch tề gia. Ðối với việc nước tức là việc công, cũng phải chu đáo. Những Huynh trưởng thuộc thành phần công chức, quân nhân thường còn rất ít tự do cho hoạt động đoàn thể. Tuy nhiên, quân nhân và công chức cũng cần làm việc có kế hoạch để thu xếp sao cho thuận tiện để khỏi trở ngại cho việc điều khiển Gia Ðình Phật Tử. Kế hoạch tề gia và kế hoạch công vụ phải nhắm vào viêc tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch sinh hoạt Gia Ðình Phật Tử. Từ anh Trưởng ban, anh chị Phó Trưởng Ban, các anh chị em Ủy viên, các anh chị em Huynh trưởng nên có kế hoạch hoạt động rõ ràng. Phải bỏ cái tâm lý “gặp đâu làm đó” hay “làm sao xong thôi”. Mỗi một công việc đều phải có thống kê, có tiêu chuẩn. Muốn được thế, ta cần có trí xếp đặt khoa học.

Tinh thần khoa học đòi hỏi một hệ thống rõ rệt nghĩa là có đối tượng, có phương pháp. Mỗi khi hành động phải nhắm rõ đối tượng. Ta làm cái gì, làm cho ai, làm với mục đích gì? Phải quan sát, phân tích đối tượng cho chu đáo. Rồi do sự đòi hỏi của đối tượng mà ấn định phương pháp, tức là phải làm thế nào cho có kết quả. Phương pháp phải đích thực nghĩa là sát với thực tế, sát với đối tượng. Chẳng hạn, trong công tác xã hội, trước hết phải quan sát kỹ càng khu vực hoạt động. Lập thống kê nhân số, nhu cầu để ấn định công tác phải làm. Sau đó, dự trù phương pháp bằng cách đặt ra các giả thuyết. Sau khi bàn cãi, loại trừ các giả thuyết vô hiệu, chọn lựa giả thuyết nào bảo đảm nhất mới đem ra thực hiện. Khi thực hiện lại phải giữ vững mục đích chớ cho sai lạc. Luôn luôn phải có công tác kiểm nghiệm đi kèm để kịp thời thay đổi điều kiện hoạt động cho thích hợp: Kế hoạch là con đường ngắn nhất để đi tới thành công.

Phải bỏ lối làm việc luộm thuộm. Việc nào việc ấy phải phân minh. Không nên dồn nhiều công tác vào một người. Và chớ để nhiều người dồn vào một công tác trong khi bỏ ngõ các công tác khác. Cần luyện lấy bộ óc khoa học để xếp đặt công việc một cách hợp lý. Gia Ðình Phật Tử từ lâu đã cố gắng thực hiện lề lối làm việc đó. Nhưng rất tiếc, cho đến nay vẫn có nhiều anh chị em Huynh trưởng chưa lãnh hội thấu đáo được tinh thần ấy. Vậy, hãy thận trọng đi vào công tác bằng kế hoạch.

Tâm niệm thứ mười: Tác phong nghiêm chỉnh

Tác phong gồm có năm yếu tố: trang phục, cử chỉ, ngôn ngữ, tư tưởng và hành động.

Hãy nhìn một vị minh sư: “Toàn thể con người của nhà sư là một bài thuyết pháp không lời”. Từ chiếc áo nâu đạm bạc mà hùng tráng, từ nét mặt trầm mặc mà chứa đựng, từ ngôn ngữ ôn tồn mà sâu sắc. Từng ấy yếu tố đủ chứng minh sự khác biệt giữa vị chân tu với một kẻ “thiếu tu” đội mũ tây, hút thuốc thơm, đi xe gắn máy phầm phập giữa chốn phồn hoa. Hình ảnh một Huynh trưởng cũng vậy. Từ cái áo lam trong sạch, không thiếu một hột nút chưa cài, từ cái huy hiệu hoa sen gắn rất ngay ngắn, đúng chỗ, từ chiếc mũ rộng vành cứng cáp, từ dáng điệu, ngôn ngữ cởi mở cho đến nụ cười chân thật, đôi mắt nhìn ngay; những yếu tố ấy kết hợp lại hình ảnh oai nghiêm của một Huynh trưởng.

Hình thức tinh khiết biểu lộ một tinh thần thành khẩn và tích cực. Người Huynh trưởng chẳng bao giờ tin lời xuyên tạc mà quên đoàn thể, chẳng bao giờ có thái độ “tiền hậu bất nhất”. Bài học “Bát Chánh” có thể làm tiêu chuẩn tinh thần cho một Huynh trưởng. Chánh trí giúp cho Huynh trưởng hiểu rõ mục đích giáo dục và sứ mệnh hộ pháp, cứu quốc của Gia Ðình Phật Tử. Chánh tưởng giúp chúng hiểu rõ đối tượng và phương pháp giáo dục. Chánh ngữ giúp chúng ta giữ được hòa khí giữa anh chị em cả trong khi thảo luận mọi việc chung. Chánh nghiệp giúp ta hăng hái xả thân cho hoạt động đoàn thể. Chánh mạng giúp ta bảo toàn danh dự và nhân phẩm của Huynh trưởng. Chánh niệm giúp ta ghi nhớ công lao các bậc thầy, các bậc đàn anh. Chánh định giúp ta khỏi sa vào âm mưu xuyên tạc của đối phương để vững lòng tin vào Gia Ðình Phật Tử. Chánh tín giúp người Huynh trưởng hăng hái phục vụ Gia Ðình Phật Tử từng phút từng giây.

Nếu một Huynh trưởng không giữ gìn lối phục sức nghiêm chỉnh, hành động minh chính và tư tưởng thành khẩn thì không những đã tự hại mà còn hủy hoại nhân cách của kẻ khác bằng các gương xấu. Người Huynh trưởng phải luôn luôn nghĩ rằng: vị tất các em đã chịu làm việc phải theo lời răn dạy của ta, nhưng chắc chắn là chúng sẽ bắt chước các tác phong bê tha, cẩu thả của ta. Huynh trưởng phải nhìn vào cái hay của bạn mà bắt chước chớ không nên dựa vào lỗi lầm khuyết điểm của kẻ khác để làm bậy theo. Lẽ thường, khuyết điểm của quân tử bao giờ cũng là ngưồn an ủi của tiểu nhân! Nhưng một khi đã gia nhập Gia Ðình Phật Tử, đã đeo huy hiệu hoa sen trắng, lẽ nào ta lại chẳng muốn hóa thành Hoa Quân Tử?

                                                                                                           Trích “SỨ MỆNH GIA ĐÌNH PHẬT TỬ” của Người Áo Lam 

digg delicious stumbleupon technorati Google live facebook Sphinn Mixx newsvine reddit yahoomyweb