Ý nghĩa tu tập Giới Bát Quan Trai

KHÓA TU BÁT QUAN TRAI GĐPT TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

Ý  NGHĨA  TU TẬP

GIỚI BÁT QUAN TRAI


Tỳ kheo THÍCH NHUẬN CHÂU



DẪN NHẬP:

Giới BÁT QUAN TRAI được Đức Phật dạy cho hàng đệ tử  tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo. Trong ý nghĩa này, tu có nghĩa là phát triển, làm cho bản thân càng lúc càng cao thượng, ngang tầm Thánh đạo, để càng lúc càng nhìn thấy rõ con đường dẫn đến Niết bàn. Tu như vậy là tu GIỚI, tu ĐỊNH và tu HUỆ.

I. Ý NGHĨA CHUNG CỦA VIỆC TU TẬP:

- Tu thân chính là tu Giới. Trong năm mệng khẩu không làm những sự xấu ác.

- Tu Giới, chính là trau dồi đạo đức; cũng có thể nói là tu sửa thân tâm, trau dồi phẩm chất đạo đức để cuộc sống của mình thanh cao hơn.

- Tu Định, là tu tập để phát triển năng lực làm chủ thân tâm; tập trung tư tưởng, không buông lung tâm ý, để tăng cường khả năng nhận thức, khai mở trí tuệ.

- Tu Huệ, có nghĩa là phát triển và nâng cao nhận thức của mình, mở tầm mắt của mình để thấy rõ sự vật.

- Trong ý nghĩa tu Giới, thông thường ta hiểu Giới là những điều ngăn cấm. Nhưng trong kinh Phật thì giới còn có nhiều nghĩa hơn thế nữa. Giới, ý nghĩa chính là  phẩm giá của con người. Trì giới là giữ gìn cái phẩm chất đạo đức của mình, giữ giá trị con người của mình.

- Người  Phật tử thọ giới rồi, có thể phạm rất nhiều; nhưng biết là phạm thì phải sửa. Không ai sinh ra mà đi được liền, Nhưng bản năng té thì đứng dậy. Vì vậy, từ bước đi căn bản, Phật chế ngũ giới. Nâng cao lên một bậc nữa là bát quan trai giới.

II. Ý NGHĨA BÁT QUAN TRAI:

- Bát quan trai, theo nghĩa đen chữ Hán, là tám điều kiêng cữ, như là tám cửa ải chận đứng các pháp bất thiện.

- Chữ Quan 關, trong tiếng Hán có các nghĩa là Đóng lại. Giam giữ. Liên quan. Cửa ải. Người thọ Bát quan trai giới rồi tức không còn làm việc gì sai trái, nên các cánh cửa của ác đạo bị đóng lại. Không còn liên quan đến các nẻo luân hồi sinh tử nữa. Không còn bị giam giữ trong vô minh nữa.

- Giới Bát Quan Trai chính xác được gọi là Giới Cận Trụ. Nghĩa là, sống gần đời sống xuất gia, gần chùa chiền, gần nơi thanh tịnh. Tập quen với đời sống thanh tịnh để thấy được giá trị.

- Nghĩa khác cao hơn, Cận Trụ được hiểu là tập sống gần đời sống một vị A-la-hán, là bậc Thánh xuất thế gian.

- Theo từ nguyên Phạn ngữ, giới Bát quan trai phát xuất từ chữ Upavasatha (Sanskrit); Uposatha (Pāli), phiên âm là Bố-tát. Hán dịch là Trưởng tịnh. Có nghĩa là trì giới sẽ làm phát triển phần thanh tịnh, những đức tính tốt đẹp trong mình.

- Cận trụ, có nghĩa là sống gần gũi đời sống cao thượng của một bậc Thánh, biểu tượng qua hình tướng của người xuất gia, các vị Tỷ-khưu. Với người xuất gia tất cả giới luật là khuôn mẫu đạo đức đều noi gương đời sống của một vị A-la-hán. Mặc dù tâm tư của vị Tỷ-khưu  ấy có thể còn nhiều hờn giận, ham muốn, nhưng bên ngoài, đi đứng nằm ngồi, tác phong đạo đức thường xuyên noi theo gương mẫu của bậc A-la-hán, học tập theo Thánh nhân.

III. Ý NGHĨA THỌ GIỚI:

- Mỗi tháng có 6 ngày thọ giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30. Hoặc 8 ngày, cộng thêm 2 ngày mồng 7 và 22.

- Trong truyền thuyết tín ngưỡng cổ xưa ở Ấn độ, người đời tin rằng vào các ngày đó ma quỷ thường quấy nhiễu loài người, và cũng là những ngày mà Thiên đế và bốn vị Hộ thế Thiên vương đi tuần hành nhân gian để giúp đỡ những ai làm điều thiện.

- Người Phật tử chỉ tin vào những nghiệp thiện ác do chính mình làm, và những hậu quả lành dữ của nó. Cho nên, thay vì cúng bái, cầu khẩn, chúng ta tu tập Bát Quan Trai Giới.

- Hiệu lực của sự thọ giới phân làm hai loại:

+ Một, là giới Tận Hình Thọ, tức phát nguyện thọ rồi thì trì suốt đời; cho đến khi chết thì giới tự động xả. Hoặc chưa chết, nhưng không còn tin tưởng, không còn thích thú trong việc trì giới, mà tự mình tuyên bố, xả giới, hay bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, bấy giờ giới thể cũng mất.

+ Hai, là giới một ngày một đêm. Đó là Giới Cận Trụ. Sau khi thọ, giới thể chỉ tồn tại luân lưu trong thâm tâm người thọ một ngày một đêm, từ khi mặt trời mọc hôm nay đến mặt trời mọc hôm sau. Hết thời hạn này, giới tự động xả.

IV. NỘI DUNG TÁM GIỚI:

Chia làm bốn phạm trù:

1. Giới tự tánh:  gồm có 4 chi: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ. Tự tánh là phẩm chất cơ bản nhất của con người. Mất đi những phẩm chất này thì cũng mất luôn giá trị làm người, mà đọa lạc xuống thành hàng súc sinh, động vật thấp. Đức Phật thị hiện hay không thị hiện ở đời, 4 phẩm chất này là cần thiết để được tái sinh làm người.

- Bốn chi này là  phần căn bản của Ngũ Giới. Có sự khác biệt trong 8 giới là không được dâm dục, trong khi Ngũ Giới chỉ là tránh  tà dâm.

- Do hiệu lực của Ngũ Giới là thọ suốt đời, mà trong Bát quan trai giới chỉ thọ một ngày một đêm, nên Thể của các giới này cũng có sự khác nhau. Như giới sát sanh. Trong năm giới, nó có giá trị phòng hộ để không bị báo ứng đau khổ về sau, là phước báo trong loài người mà thôi. Trong Bát quan trai giới, nó không những tăng cường năng lực phòng hộ, mà còn phát triển thành nhân tố tích cực, trở thành năng lực đối trị phiền não, chế ngự và diệt trừ tâm sân hận, từ đó dễ dàng chứng đắc các cảnh giới  Thiền, cao hơn nữa là các Thánh quả.

2. Trừ phóng dật, là giới cấm uống rượu, giới thứ 5 trong Ngũ Giới. Trong đó,  giới không uống rượu chỉ là sự phòng hộ không để say sưa, mất tự chủ, rồi dẫn đến phạm các giới khác. Trong Bát quan trai giới, việc tránh xa uống rượu trở thành năng lực ngăn trừ sự phóng dật và  buông lung.

3. Ngăn trừ kiêu mạn. Giới thứ 6, không ngồi nằm trên các thứ giường tòa cao rộng. Giới thứ 7, không trang sức các thứ tràng hoa, anh lạc, thoa ướp hương thơm; cũng tránh không ca múa, hát xướng, cố ý xem nghe. Trong giới Sa-di, hai chi này được phân thành ba, vì mục đích học tập chánh niệm.

4. Thể của Giới  bát quan trai. Giới không ăn phi thời, làm nền tảng cho tất cả 8 điều. Do giới không ăn phi thời này mà bản chất giới sát sinh, v.v… trong 5 giới khác với thể của các chi trong 8 giới.

- Trong phong tục Trung hoa, khi một ông Vua muốn làm lễ tế thiên địa, thì trước đó phải dọn mình cho sạch sẽ bằng cách trai giới một tuần tức 10 ngày. Trai giới ở đây là kiêng cữ rượu thịt và sắc dục.

-Trong tục lệ tôn giáo Vệ-đà của Ấn độ, người gia chủ muốn làm dâng lễ Soma cho thần linh, trước hôm hành lễ cũng phải trai giới, tức không ăn chiều.

V. LỢI LẠC KHI TU TRÌ  BÁT QUAN TRAI GIỚI:

- Người tu trì Bát quan trai giới sẽ phát triển Thiện căn, lớn mạnh năng lực Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ.

- Làm thế nào để phát triển các thiện căn này là tín, tấn, niệm, định, huệ?

Học tập thọ trì Bát Quan Trai Giới để gần gũi đời sống một vị A-la-hán, để có chánh tín nơi Thánh đạo, biết rõ có con đường thánh, có con đường ra khỏi thế gian cho mình đi.

- Tinh tấn là nghị lực. Niệm, tức chánh niệm, không xao lãng pháp thiện, không quên bỏ mục đích tối thượng của đời mình.

- Niệm là nhớ, suy nghĩ, từ chiêm nghiệm cho đến chánh niệm. Trong Bát Quan Trai Giới, người Phật tử thọ giới được khuyên dạy là nên tu tập Pháp Môn Lục Niệm, tức đối tượng để chiêm nghiệm và suy niệm. Đó là: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên. Đây cũng là một phần của việc tu Định.

- Niệm Phật, là niệm những phẩm tính của Phật. Phật là đáng Đại giác, đã diệt trừ phiền não, đạo đức toàn vẹn, không còn tham sân si; Phật là đấng Ứng cúng, Chánh biến tri, là đấng Giác ngộ hoàn toàn.

- Niệm Pháp là niệm những lời dạy của đức Phật. Pháp của đức Thế Tôn khéo nói, khéo giảng dạy; pháp đó vốn thanh tịnh, ly dục, nếu mình thực hành thì có hiệu quả ngay.

- Niệm Tăng. Tăng là chúng đệ tử của Phật, những vị đang đi trên con đường thánh đạo, đang thực tập, dù là phàm Tăng hoặc là thánh Tăng, đều đang hướng đến Niết bàn hay đã chứng đạo quả Niết bàn. Có thật những vị Tăng thanh tịnh  trong thế gian.

- Niệm Thí là suy niệm về sự thực hành bố thí có hiệu quả. Ở thế gian thực tập hạnh thí xả; xả bỏ tiền tài, danh vọng, không tham lam chấp trước tài sản.

- Niệm Giới là suy niệm làm thế nào giới không bị khuyết phạm,  không bị hoen ố, không bị tì vết, như viên ngọc có phẩm chất trong sáng.

- Niệm Thiên là suy niệm về một thế giới quan Phật giáo tiến bộ, rằng ngoài cõi người này còn có cõi trời, thế giới của Chư thiên. Cao hơn nữa có thế giới của chư Phật, Bồ-tát.

VI. KẾT LUẬN:

Khi vun trồng được thiện căn, tức thành tựu được Bát Quan Trai Giới, nó sẽ phát sinh ra hiệu quả. Từ đó mình sẽ thấy, sẽ cảm nhận được Phật Pháp vi diệu, sẽ nâng mình lên đời sống cao hơn, càng thấy phẩm giá mình càng lúc càng thăng hoa, càng gần quả vị an lạc giải thoát.

- HẾT -

digg delicious stumbleupon technorati Google live facebook Sphinn Mixx newsvine reddit yahoomyweb